TRÀM VÀ TINH DẦU TRÀM

Còn gọi là cây chè cay, chè đồng

Tên khoa học: Melaleuca, leucadendra L.

Thuộc họ sim Myrtaceae.

Cây Tràm cho ta những vị thuốc sau đây:

1.Cành non mang lá tươi hay phơi khô.

2.Tinh dầu Tràm thường gọi là Tinh dầu Khuynh diệp

3.Tinh dầu Tràm tinh chế.

MÔ TẢ CÂY.

Tràm là 1 cây nếu để phát triển tự nhiên có thể cao tới 4-5m, nhưng đều bị cắt

xén thường xuyên, chỉ còn là những cây bụi chừng 40-50cm. Trên thân cây to

lớp vỏ bong ra thành từng mảng to dài. Lá mọc so le, cuống màu xanh vàng nhạt,

phiến lá hình mác trên có những gân chạy dọc theo gân chính, lúc đầu mỏng và mềm,

về sau thành dày, cứng và dòn; thường dài từ 4-8cm, rộng 10-20cm. Vì lá thường được

nhân dân một số vùng nấu uống thay chè lại mọc hoang ngoài đồng cho nên có tên là chè đồng,

vị nước uống hơi cay cho nên còn có tên chè cay. Hoa nhỏ màu trắng vàng nhạt, không cuống

mọc thành bông ở đầu cành, nhưng sau từ đầu bông hoa, cành lại mọc dài thêm và

mang lá thành ra bông hoa nằm giữa cành lá trông rất đặc biệt. Quả nang rất cứng,

3 ngăn, hình tròn, đường kính 13mm, cụt ở đỉnh, đài cứng tồn tại ôm sâu vào quả.

Hạt hình trứng, dai chừng 1mm. Tên cajeput do chữ Malixia của tên cây Cajuputi

hay kaiputi có nghĩa là gỗ trắng vì cây này có màu nhạt trông xa như 1 rừng màu trắng.

PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Cây Tràm mọc hoang tại khắp nơi trong nước ta từ Nam đến Bắc, nhiều nhất tại miền Nam,

Tràm mọc thành từng rừng bạt ngàn sau những rừng sú.

Tại miền Bắc, Tràm nhiều nhất tại các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế.

Tại Nghệ An, Hà Tĩnh và vùng đồi núi huyện Kim Anh và Đa Phúc, huyện Phổ Yên cũng

có 1 số ít Tràm, mọc hoang. Chưa thấy ai tổ chức trồng cây Tràm. Trước đây Tràm hầu như

không được khai thác. Thường nhân dân chỉ hái lá và cành non về phơi khô nấu nước uống

thay chè hay uống để giúp sự tiêu hóa. Mãi tới khoảng năm 1990, cây Tràm vùng Quảng Bình,

Quảng Trị mới được khai thác để cất tinh dầu bán rộng rãi trên thị trường với tên

“ dầu khuynh diệp “ ( đúng ra là tinh dầu ) vì khuynh là nghiêng, diệp là lá, cây Tràm có lá

mọc nghiêng không giống những cây khác, từ đó cây này thêm tên là cây khuynh diệp.

Trong kháng chiến chống Pháp những cây Tràm vùng Bắc Cạn, Thái Nguyên cũng được khai thác

để cất tinh dầu dùng trong bộ đội.

THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Thành phần chủ yếu của lá Tràm là tinh dầu, với tỷ lệ 2,5% trên lá tươi, hoặc 2,25 trên lá khô.

Tinh dầu Tràm là 1 chất lỏng, không màu hay hơi vàng nhạt ( một số có màu xanh là do nhuộm

chứ không phải màu tự nhiên ), vị hơi cay và mát sau nóng, mùi thơm đặc biệt, tả tuyền.

Nếu tinh chế, tinh dầu trong, hầu như không màu, D: 0,920-0,930, chỉ số khúc xạ

1,466-1,472 quay từ 0° đến 3°40. Sôi ở 175°C; tan trong 2,5 đến 3 thể tích cồn 70°C.

Hoạt chất chủ yếu của tinh dầu là cajeputol hay xineola hoặc eucalyptola với tỷ lệ 35 đến 60%.

Ngoài ra còn chứa pinen tả tuyền, tecpineola, một ít andehyt, các ete như ete axetic.

Tinh dầu Tràm cất từ cây Melaleuca viridiflora ở tân đảo cũng chứa từ 35 đến 60% xineola

ngoài ra còn chứa một ít tecpineola hữu tuyền ( khác với tinh dầu Tràm của ta ), một ít andehyt.

Cả 2 thứ tinh dầu khi tinh chế rồi thì không được chứa andehyt. Muốn tinh chế tinh dầu Tràm ta

có thể ngâm tinh dầu với một hỗn hợp oxyt chì và dung dịch NaOH

trong 3 giờ ở nhiệt độ đun cách thủy, hoặc dùng thuốc tím và axit sunfuric, sau đó cất lại.

Tinh dầu Tràm tinh chế không có màu hay có màu vàng rất nhạt, mùi thơm dễ chịu.

Mới đây A.Quevauviller và cộng sự đã chứng minh trên thực nghiệm và lâm sàng là tinh

dầu khuynh diệp tinh chế làm tăng tác dụng kháng sinh của streptomyxin và đặc biệt của

penixillin.

CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG.

Trong nhân dân thường dùng lá và cành non, mang lá để pha hay hãm hoặc sắc với nồng

độ 20g lá trong 1 lít nước để uống thay nước giúp sự tiêu hóa, chữa ho, hoặc để xông.

Có thể dùng dưới dạng ngâm rượu với tỷ lệ 1/5 với tên cồn khuynh diệp cùng 1 công dụng

như trên với liều 2 đến 5g cồn cồn 1 ngày. Phổ biến nhất là tinh dầu: thường dùng nguyên

chất để xoa bóp chữa đau nhức, tê thấp, ho, cảm. Mặc dù tỷ lệ xineol trong tinh dầu Tràm

thấp hơn trong tinh dầu bạch đàn giới thiệu sau đây nhưng người ta cho rằng tính chất sát

trùng của tinh dầu Tràm lại mạnh hơn tinh dầu bạch đàn, người lớn và trẻ con đều có thể

dùng tinh dầu Tràm nguyên chất để xoa bóp; người ta có thể uống tinh dầu với liều X (10)

đến L (50) giọt nhỏ vào nước thêm đường mà uống. Với tinh dầu tinh chế có thể chế thành

thuốc tiêm với nồng độ 5-10 hoặc 20%. Ngày tiêm dưới da 1-2 ống chứa 0,1 đến 0,2g tinh dầu.

Dung dịch tinh dầu tràm 5-10 hay 20% trong dầu còn được dùng với tên gomenol để nhỏ mũi

chống cúm, ngạt mũi. Người ta còn dùng tinh dầu pha với nước với nồng độ 2 phần nghìn để

rửa các vết thương rất tốt.

( *Tài liệu tham khảo: Những cây thuốc và vị thuốc Viêt Nam – Giáo sư – Tiến sĩ.

Đỗ Tất Lợi giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học và Kỹ thuật )

 

 

Xu hướng tìm kiếm: cay-tram-va-tinh-dau-tram
cây sả và tinh dầu sả
...
Cây xá xị và tinh dầu xá xị
...
Để lại một bình luận